Lịch sử của sự gây mê trong phẩu thuật
Theo Việt Sceiences
www.duongdoimuonneo.blogspot.com - Cho đến nửa đầu thập niên
1840, những cuộc giải phẫu ở trên thế giới, từ Á sang Âu và Bắc Mỹ đều tương
tự như thế.
Ngoài người y sĩ giải phẫu, còn cần hai, ba người lực lưỡng, để
đè giữ người được giải phẫu.
Người được giải phẫu tỉnh táo, nghe tiếng cưa,
dao cắt qua thịt, qua xương, và la hét rên rĩ vì đau đớn. Nhà giải phẫu
phải rất nhanh tay, cưa chân chỉ mất có 25 đến 27 giây, vì nếu làm lâu hơn,
bịnh nhân có thể chết vì chịu không nỗi sự đau đớn.
Những tiếng la hét vì đau đớn có thể vang dôi đến độ người đi ngoài đường
cũng nghe được. Darwin còn phải nhìn nhận là các cuộc giải phẩu rất ghê rợn
và hai trường hợp giải phẫu mà ông đã chứng kiến khi chưa có thuốc mê vẫn ám
ảnh ông trong nhiều năm. (Darwin & Barlow, 1958)
1- Ether : (CH3CH2)2O
Mãi
đến ngày thứ sáu 16 tháng 10 năm 1846, mọi việc mới thay
đổi. Ngày đó, tại bịnh viện Tổng quát tiểu bang
Massachusetts ở Boston, thuốc gây mê đã được áp dụng trong
một ca mổ, mở đường cho những bước tiến nhảy vọt của y khoa,
và giải phẫu.
Ngày đó, Bác sĩ
John Collins Warren
(1753–1815) trưởng
khoa giải phẫu bịnh viện tổng quát Massachusett
(Massachusetts General Hospital) đã mời nha sĩ
William T. G.
Morton (1819 - 1868).
đến phụ giúp ông để cắt bỏ cái bướu ở cổ của
Gilbert
Abbott.
Thường thì trường hợp này chỉ là một ca mổ không
quan trọng, và chỉ mất khoảng 3 phút đồng hồ. Ðiều khác
biệt là bác sĩ Warren muốn dùng một phương thức mới: sự gây
mê nơi bịnh nhân trong suốt cuộc giải phẫu, và Morton là
người phụ trách việc này. Morton đã cho Abbott hít ê te
(ether) và ngay sau đó, bác sĩ Warren đã tiến hành việc cắt
bỏ cái bướu. Sau đó Abbott xác nhận:
Ngày 16 tháng 10 năm
1846 được chính thức ghi nhận là Ngày ê te (Ether Day), và tòa nhà có
phòng giải phẫu đó được đặt tên lại là Vòm ê te (Ether Dome).
Ngày
17 đã có thêm một cuộc giải phẫu cắt bỏ một cái bướu trên cánh tay của một
phụ nữ. Theo đề nghị của bác sĩ Warren, bác sĩ
George Hayward đã nhờ nha sĩ
Morton dùng ê te gây mê cho bịnh nhân.
Cuộc giải phẫu này kéo dài đến bảy
phút, nhưng nha sĩ Morton đã theo dõi và cho bịnh nhân hít ê te nhiều lần. Sau khi mổ xong, bịnh nhân xác nhận là không hề cảm thấy đau đớn gì hết, và
đã vui vẻ kể chuyện về đứa con của bà, đang chờ đợi bà ở nhà. Giải phẫu với
thuốc gây mê ê te đã thành công,
Mở đầu kỷ nguyên mới cho ngành giải
phẫu. Nhưng nếu nha sĩ Morton và các bác sĩ Warren và Hayward là những người
chính thức dùng ê te để gây mê trong các cuộc giải phẫu thì đã có nhiều
người khác đã biết đến ê te và những thuốc gây mê tương tự.
Chính
Morton đã dùng ê te để gây tê ở trên mặt và nhổ răng thật sự không đau vào
ngày 30 tháng 9 năm 1846. Nhờ đó mà bác sĩ Warren mới mời ông phụ giúp việc
gây mê ngày 16 tháng 10 như đã nói ở trên.
Những người khai phá
Theo tài liệu trích
dẫn trong
dược sĩ
Raymundus Lullius, người Tây ban
nha đã tìm ra ê te ngay từ năm 1275
và gọi hơi này là "lưu toan
dịu" (sweet vitriol.
Vitriol là tên cũ của acid sulfuric).
Ðến năm 1540
khoa học gia Valerius Cordus,
người Ðức đã ghi lại phân chất của chất lưu toan dịu này. Và cùng
thời gian đó Paracelsus,
nhà vật lý và luyện kim người Thụy sĩ đã
phát hiện tác dụng thôi miên của lưu toan dịu.
Mãi đến năm 1730,
W.G. Frobenius, một khoa học gia người Ðức mới đổi tên
"lưu toan dịu" thành ê te (CH3CH2)2O..
E te được điều chế từ
sự khử nước của rượu ethanol ở 140°C dưới sự hiện diện của acid sulfuric
|
Các nhà vật lý
và khoa học gia đã dùng ê te trong nhiều việc khác nhau, nhưng không ai biết
dùng ê te như một chất hơi gây mê.
Ngay từ năm 1794, các y sĩ người Anh
như Richard Pearson và
Thomas Lovell Beddoes
(1803-1849), đã dùng ê te để trị một chứng lao, bịnh
sạn ở bọng đái và bịnh phù thủng. Ðầu thế kỷ thứ 19, vài y sĩ Hoa kỳ dùng
ê te để trị một vài chứng sưng ở trong phổi.
Michael
Faraday (1791 - 1867) , nhân viên bào chế trong dược phòng đã
tìm ra khả năng làm mê của hơi ê te. Faraday là nhà
vật lý học kiêm hoá học người Anh, nổi tiếng nhờ những khám phá về sự cảm ứng điện từ (induction électromagnétique)
và những định luật điện giải (**).
Y sĩ
Henry Hill Hickman
đã thử nghiệm
một cách cẩn thận ảnh hưởng của hai chất hơi ê te và "khi' chọc cười" trên
thú vật. Ông có ghi lại trạng thái lơ lửng của thú vật giúp cho việc giải
phẫu chữa trị chúng tiến hành được dễ dàng. Tiếc là ông mất quá sớm khi mới
29 tuổi, nên không có đóng góp được nhiều.
2- Protoxyd nitơ: N2O
Những người khám phá
Trong khoảng
30 năm cuối thế kỷ thứ 18 (1773), Joseph Priestley, mục sư Anh giáo ở Leeds và là
một người mê say Hóa học đã cô lập được thán khí (CO2,
gaz carbonique), tách
dưỡng khí trong không khí, và tạo ra được oxyd ni tơ (oxyde d'azote) thuần
chất.
Ông lại tạo ra được protoxyd ni tơ (protoxyde d'azote;
N2O) mà sau đó được
gọi là "khí chọc cười" (laughing gas hay gaz hilarant). Khí này có tác
dụng làm cho người hít nó ở trong một trạng thái phiêu diêu, lơ lửng, và cảm
thấy vui vẻ, yêu đời, nhiều khi cười cợt như điên. Ông mất năm 71 tuổi, mà
chưa nhận thức được khả năng
làm dịu hay giảm bớt đau của chất "khí chọc
cười".
N2O (protoxyde d'azote,
Nitrous Oxide)
Khối lượng phân tử: 44,01g
Nhiệt độ sôi: -88,5°C
Độ nóng chảy: -90,8°C
Mặc dù là chất khí
không cháy, nhưng ở 650°c nó cháy nổ
N2O được điều chế từ sự
khử nước của nitrat ammonium ở 250°C:
NH4NO3 |
N2O |
Ngoài việc dùng
làm thuốc
tê để nhổ răng,
N2O còn dùng
làm chất bán dẫn. Người ta cũng dùng
N2O
để tăng công suất cho xe hơi (xem phụ
chú 1) và hỗn hợp 50% oxy và
50% N2O hít vô sẽ
giảm đau và bớt stress..
Năm
1788
Humphrey Davy,
một dược sĩ tập sự đã tiếp tục công trình nghiên cứu của Priestley trên
"khí chọc cười". Ông đã chế tạo một bộ máy nhỏ, gồm một bao bằng lụa,
có chốt
mở, đóng để dễ điều khiển việc cung cấp chất khí đó. Ông đề ra giả
thuyết
là "khí chọc cười" có thể dùng làm cho người bịnh mất cảm giác, do đó
không
bị đau đớn trong các cuộc giải phẩu. Nhưng không có ai trong ngành y
khoa
để ý đến giả thuyết này.
Horace Wells (1815-1848) là một nha sĩ ở Hartford, Connecticut, Hoa kỳ. Ông đã nhờ Gardner Q. Colton cho ông hít protoxyde d'azote N2O trước khi để đồng nghiệp là nha sĩ John Riggs nhổ răng cho ông vào tháng 12 năm 1844. Kết quả đã hết sức tốt đẹp vì ông đã không hề cảm thấy đau đớn khi bị nhổ răng.
Ông quyết định áp dụng việc hít protoxyde d'azote cho các bịnh nhân của
ông, và thân chủ đã đổ xô đến để cho ông nhổ răng. Nhưng ông đã thất bại
khi ông thử áp dụng lối gây mê với protoxyde d'azote trong một cuộc giải
phẩu với bác sĩ Warren trong năm 1845.
William Green Morton (1819-1868) là nha sĩ ở Boston. Ông cũng dùng protoxyde d'azode để gây tê cho các thân chủ đến nhổ răng với ông. Nhưng khác hơn Horace Wells ông cũng thử dùng ê te vì ông đã nghiệm được tác dụng của chất này. Những thành quả của ông trong việc gây tê với ê te đã được bác sĩ Warren theo dõi, và đã mời ông làm người gây mê trong ngày lịch sử ê te, 16 tháng 10 năm 1846 đã kể ở trên. Morton may mắn được đồng nghiệp là Charles T. Jackson khuyên nên dùng ê te để gây tê trước khi nhổ răng cho thân chủ. Ông cũng khuyên Morton nên chế tạo một cái máy để có thể cung cấp ê te đúng liều lượng và theo ý muốn. Morton đã may mắn có Josiah Holbrook, một sinh viên tốt nghiệp đại học Yale, và là một người chuyên chế tạo các dụng cụ y khoa tại Boston lúc bấy giờ.
William Green Morton (1819-1868) là nha sĩ ở Boston. Ông cũng dùng protoxyde d'azode để gây tê cho các thân chủ đến nhổ răng với ông. Nhưng khác hơn Horace Wells ông cũng thử dùng ê te vì ông đã nghiệm được tác dụng của chất này. Những thành quả của ông trong việc gây tê với ê te đã được bác sĩ Warren theo dõi, và đã mời ông làm người gây mê trong ngày lịch sử ê te, 16 tháng 10 năm 1846 đã kể ở trên. Morton may mắn được đồng nghiệp là Charles T. Jackson khuyên nên dùng ê te để gây tê trước khi nhổ răng cho thân chủ. Ông cũng khuyên Morton nên chế tạo một cái máy để có thể cung cấp ê te đúng liều lượng và theo ý muốn. Morton đã may mắn có Josiah Holbrook, một sinh viên tốt nghiệp đại học Yale, và là một người chuyên chế tạo các dụng cụ y khoa tại Boston lúc bấy giờ.
Morton và
Warren đã gửi phúc trình báo cáo về hai vụ giải phẫu có dùng ê te để gây mê
lên các báo chuyên môn về y khoa. Do đó Morton được nhìn nhận là người đã
khám phá ra khả năng gây mê của ê te và áp dụng thành công khả năng đó.
Crawford W. Long
(1815-
đã dùng ête sulfurique để gây tê từ 1842 và có lúc ông đã nhờ Robert
Goodman, một người có tiệm dược phòng ở Athens, tiểu bang Georgia gởi cho
ông ê te xuống nơi ông làm việc ở Jefferson, cũng trong tiểu bang Georgia.
Nhưng không may cho ông, những người ở Jefferson cho là ông làm trò ma quỷ
và đã buộc ông ngưng dùng ê te. Sau này tiểu bang Georgia dựng tượng của
ông trong Nghị viện tiểu bang.
Chloroform
Chloroform là một
chất lỏng không màu, mùi dễ chịu và vị hơi hơi ngọt. Ðược chế tạo cùng lúc
vào năm 1831 ở hai nơi xa cách nhau, một bởi Justus von Liebig ở nước Ðúc và
một bởi Eugene Soubeiran ở nước Pháp. Bác sĩ sản khoa James Y. Simpson đã
dùng Chloroform làm thuốc gây mê vào năm 1847 tại Edinburgh, Ecosse (Tô cách
lan) trong khi đỡ đẻ. Sau đó việc dùng chloroform như loại thuốc gây mê
trong các cuộc giải phẩu đã lan tràn ở Âu châu.
Nhưng mãi đến đầu thế kỷ
thứ 20, chloroform mới bắt đầu được sử dụng thay cho ê te ở Bắc Mỹ. Nhưng
trong các xứ mới bắt đầu mở mang, người ta vẫn còn dùng ê te, vì dễ kiếm, rẻ
tiền và tương đối an toàn. Chloroform đã không còn được thông dụng vì có
thể tạo ra chứng đứng tim đột ngột.
Người ta thay chloroform bằng
Trichloroethylene một hydrocarbon cùng loại, nhưng chất này cũng không được
dùng lâu vì có thể tạo ra ung thư.
Chloroform
được sản xuất trong kỹ nghệ bằng cách đun hỗn hợp chlour và
các clorometan ha metan ở 400-500°C. Ở nhiệt độ này một loạt phản ứng xảy ra
biến đối methan hay clorometan từ từ thành những hợp chất chứa nhiều
clor
CH4 + Cl2 ---> CH3Cl
+ HCl
CH3Cl + Cl2 ---> CH2Cl2 + HCl
CH2Cl2 +Cl2 ---> CHCl3 + HCl
CHCl3 + Cl2 ---> CCl4 + HCl
Ethylen H2C =CH2
Từ 1846, sau khi ê
te được dùng làm thuốc gây mê, người ta đã thử hầu hết các chất khí hoặc
hơi có thể ngửi được để tìm ra những chất có thể gây mê hay tê có tác dụng
tốt hơn và có hậu quả nhẹ hơn ê te. Tháng 2 năm 1923, W.
Easson Brown , làm
việc trong phòng dược khoa của Ðại học Toronto đã trình bày những "Thí
nghiệm sơ khởi với ê ty len như là loại thuốc gây mê tổng quát" (Preliminary
Experiments with Ethylene as a General Anaesthetic).
Qua tháng sau,
Luckhartdt và Carter bài "The physiologic effects of ethylene, a new gas
anesthetic" (Tác dụng bịnh lý của ethylen, một chất khí gây mê mới). Sau
nhiều lần áp dụng thử, ethylen trở thành chất gây mê tổng quát, thay thế ê
te và chloroform.
Cyclopropane
Ðến 1930, người ta
bắt đầu thử cyclopropane như một chất gây mê mới. Cyclopropane mạnh hơn ê
te và nitrous oxide, nhưng đặc tính của cyclopropane là chỉ cần chiếm 10 dến
15 phần trần trăm trong hỗn hợp khí, do đó dưỡng khí được tăng lên đến 85
hay 90 phần trăm, giúp người được gây mê dễ thở hơn. (Nitrous oxide cần đến
85 hoặc 90 phần trăm trong hỗn hợp khí, còn ê te cần đến 80 phần trăm).
Do
đó cyclopropane nghiễm nhiên trở thành thuốc gây mê tổng quát được dùng
nhiều nhứt. Nhưng khi giải phẩu ở thân trên, người ta phải dùng một liều
lượng cao cyclopropane hay ê te. Ở liều lượng cao này, ê te và nhất là
cyclopropane lại làm cho sức ép của cơ tim giảm, làm khó thở, và gan và trái
cật không hoạt động bình thường được.. Các nhà nghiên cứu không dừng lại
với cyclopropane được.
Howard Griffith đã
áp dụng ê ty len lẫn cyclopropane trong việc gây mê tổng quát ở bịnh viện
Homoeopatic ở Montréal (sau này đổi tên lại là bịnh viện Nữ Hoàng
Elizabeth) Số bịnh nhân được gây mê bằng cyclopropane tăng từ 350 người
trong năm 1934 lên đến hơn 5000 người vào năm 1940. Nhưng cyclopropane ở số
lương cao có thể gây ra khó thở nơi người được gây mê.
Intocostrin
Năm 1940, Lewis
H. Wright đại diện của công ty Squibb đã đề nghị dùng Intocostrin, một
dược chất trích từ độc dược Curaré để làm dịu phản ứng của Metrazol trên
những người bị bịnh thần kinh. Curaré là thuốc độc mà thổ dân ở Ba Tây và
Nam Mỹ tẫm vào đầu mũi tên.
Chỉ cần bị đầu mũi tên làm sướt da một chút
là người bị thương có thể chết sau khi các bắp thịt bị tê liệt. Curaré được
chế từ một loại dây leo mọc trên vòm cây khu rừng nhiệt đới của Nam Mỹ, và
công ty Squibb đã lọc được dược chất Intocostrin.
Dược sĩ
McIntyre và bác sĩ tâm thần Bennett ở Omaha, Nebraska, đã thử
Intocostrin ở liều lượng thật nhỏ, để kềm bớt phản ứng của Metrazol. Sự
thành công bất ngờ của loại thuốc mới làm cả hai rất vui mừng và đã tự động
quảng cáo cho Intocostrin. Nhưng những bác sĩ ở Hoa kỳ không may mắn khi
thử với loại thuốc này.
Bác sĩ Stuart Cullen đã thận trọng thử thuốc
trên các con chó, và tất cả đều bị phản ứng khó thở gần giống như bị suyễn.
Bác sĩ Cullen không dám thử trên người, và để loại thuốc mới này qua một
bên. Nhưng ở Montréal Harold Griffith đưọc xem cuốn phim do bác sĩ Bennett
thâu.
Vào ngày 23 tháng 1
năm 1942, Harold Griffith cùng với cô phụ tá Enid Johnson đã
thử dùng Intocostrin làm thuốc gây mê trên một bịnh nhân cần mổ ruột dư.
Intocostrin gây mê như cyclopropane, nhưng lại hơn ở chỗ làm dịu các cơ và
bắp thịt, khiến cho việc giải phẫu diễn tiến một cách dễ dàng. Sau đó, bác
sĩ Griffith và cô Johnson đã thu thập tài liệu và công bố 25 trường hợp giải
phẫu dùng Intocostrin làm thuốc gây mê. Bản báo cáo được tiếp đón nồng
nhiệt và Intocostrin trở thành loại thuốc gây mê mới. Bác sĩ Cullen, khi
đọc bản báo cáo, đã dậm chân la trời và đã đem các mẫu Intocostrin ra dùng
ngay.
Châm cứu
Thuốc gây mê có diễn tiến như trên trong y-khoa
Âu Tây. Người Á Ðông, nhất là người Trung hoa có một phương
pháp khác để gây tê. Ðó là châm cứu.
Châm là dùng kim
bằng kim loại (có khì dùng tre chuốt thật nhọn, nếu gặp
trường hợp không có kim) châm vào kinh mạch hay các điểm đã
được xác định trước trên thân thể con người.
Cứu là dùng
ngải (cỏ, lá của những dược thảo) để hơ vào các huyệt.
Nhưng ngày nay châm cứu được hiểu như dùng kim bằng kim loại
để trị. Châm cứu đưọc xem như cách trị nhiều bệnh từ nhức
đầu kinh niên đến mất ngủ, đau bao tử hay đường ruột ...
Nhưng chủ yếu, châm cứu rất công hiệu trong việc làm giảm
đau nhức, và đã được dùng để gây tê ở một phần thân thể.
Châm cứu bằng kim
Nhiều nhà quan sát Tây phương đã được mục kích
các cuộc giải phẫu quan trọng ở Trung quốc, mà người gây tê
cho bệnh nhân là một châm cứu gia. (Encyclopedia Britanica,
trang 74). Ðặc biệt là việc gây tê thường được thực hiện ở
phần thân thể xa cách nơi giải phẫu, như châm sáu bảy kim
vào cánh tay và bàn chân để gây tê ở vùng bụng, khi mổ cắt
ruột dư bị sưng.
Người ta giải thích theo y khoa Tây Âu
là các mũi kim có thể đã tác dụng để cơ thể sản xuất ra các
hóa chất trị đau như endorphins hay enkephalins.
Một thuyết khác cho rằng các kim châm vào kinh mạch sẽ tạo
ra những tín hiệu làm tràn ngập hệ thần kinh, và loại bỏ các
tín hiệu dẫn đưa sự đau đớn lên não bộ, thuyết thứ ba cho
là châm cứu chỉ là một cách tự kỷ ám thị, và nhờ đó mà bệnh
nhân không thấy đau.
Châm cứu bằng ngón tay
Ngoài việc châm cứu bằng kim, người Ðông y sĩ có
khi dùng ngón tay hay móng tay đè lên các huyệt (giống như
điễm huyệt trong các chuyện chưởng). Áp lực của ngón tay
cũng công hiệu như châm kim. Khác với thuốc gây tê trong y
khoa Tây phương, các huyệt thường nằm xa chỗ cần gây tê nơi
cơ thể của người bệnh nên việc châm cứu không gây vướng bận
cho việc giải phẫu. Và cũng nhờ đó mà người bệnh không bị
các hậu quả do thuốc tê gây ra.
Hiện nay ở Bắc Mỹ cũng như
ở Anh quốc đã có những hiệp hội về châm cứu để kiểm soát các
Ðông y sĩ hành nghề này. Ở Việt Nam, ngay từ các năm
1950-1960 đã có nhiều người học về châm cứu. Bác sĩ Y khoa
Lê văn Phụng trong thập niên đó đã có phòng mạch
chuyên về châm cứu ở góc đường Phan Thanh Giản và Ðinh Tiên
Hoàng.
Ông đã học thêm châm cứu ở Ðài loan sau khi tốt
nghiệp Y khoa Bác sĩ. Nhưng cũng có nhiều người theo y
khoa Âu Tây còn hoài nghi châm cứu và cho là việc châm cứu
không có hiệu quả.
Loại
thuốc gây mê mới này, tuy giúp các cơ, bắp thịt dịu lại mà không co cứng,
nhưng buộc các chuyên gia gây mê phải giúp bịnh nhân thở điều hoà. Nghĩa là
vẫn còn cơ hội để tìm tòi và nghiên cứu về thuốc gây mê hay những cách gây
tê không theo trường phái y khoa Âu Tây, hầu tìm ra những dược chất mới,
phương cách mới gây mê hay gây tê một cách chính xác, không có những hậu quả
khó chịu hay nặng nề, mà vẫn giữ cho bịnh nhân được an toàn ở một mức tối
ưu.
Châm cứu bằng tia laser hồng ngoại
Ngày nay
người ta đã có thể châm cứu mà không cần chạm vào huyệt của
người bịnh bằng kim hay bằng ngón, hoặc móng tay. Người ta
dùng tia laser để kích thích các huyệt cũng y hệt như châm
cứu bằng kim. Dùng tia laser ít hao tốn hơn và không nguy
hiểm cho người được chữa bịnh vì không có những hiệu ứng
phụ bất lợi, và không sợ bị nhiễm trùng. Châm bằng tia
laser không đau, không để lại dấu vết, mà lại kích thích
được các huyệt ở đúng độ sâu nhạy nhất..
Người ta đã dùng tia laser hồng ngoại,
phát sóng liên tục, 15 mW, 632.8 nm cho những huyệt nằm gần da và tia laser
hồng ngoại, phát sóng từng đợt (pulsed) 9.4W, 904 nm cho những huyệt nằm
sâu hơn để chữa cho những người bị đau nhức ở cườm tay. (CTS )(Xem
phụ chú 2). Sau khi
chữa trong vòng ba đến bốn tuần, những người bịnh CTS ở mức độ vừa phải
(không nặng quá), đã dùng bàn tay làm việc lại được và trong hai năm sau
không hề bị đau nhức nữa.
*****
Post a Comment