Theo Sức Khỏe Cộng Đồng
www.duongdoimuonneo.blogspot.com - Hiện
nay có hàng triệu người lớn tuổi trên thế giới bị bệnh Alzheimer, tuổi
mắc bệnh thường từ 65 trở lên. Con số này dự đoán sẽ gấp nhiều lần
trong vòng 20 năm tới, khi tuổi thọ trung bình ngày càng tăng lên.
Mặc
dù vẫn chưa có một phương pháp thực sự hữu hiệu nào để ngăn ngừa bệnh
Alzheimer, nhưng các nhà nghiên cứu đã đạt được những bước tiến quan
trọng trong 5 năm gần đây.
Điều trị thích hợp có thể giúp cải tiến cuộc sống cho bệnh nhân. Ngày càng có nhiều loại thuốc được
nghiên cứu, và các nhà khoa học còn khám phá ra hàng loạt gen có liên
quan đến Alzheimer, từ đó đã đưa ra nhiều hướng điều trị nhằm ngăn chặn
bệnh lý phức tạp này.
Trong
khi chờ đợi các thành tựu đó, việc chăm sóc các bệnh nhân Alzheimer vẫn
còn tập trung và sử dụng những hiểu biết hiện có. Họ rất cần sự hỗ trợ
và giúp đỡ của bạn bè và người thân để đương đầu với bệnh tật.
Các dấu hiệu và triệu chứng
Mọi
người ai cũng thỉnh thoảng có lúc bị lầm lẫn và mắc sai sót về trí nhớ.
Hết sức bình thường nếu như bạn quên tên của một người mà bạn hiếm khi
gặp mặt. Nhưng điều này sẽ không phải là một chuyện bình thường, khi bạn quên ngay cả những đồ vật hàng ngày và tên những
người thân thiết trong gia đình mình.
Bệnh
Alzheimer – một tiến trình thoái hóa của não bộ – vượt quá giới
hạn của sự quên thông thường. Nó có thể bắt đầu bằng sự rối loạn và mất
trí nhớ nhẹ nhàng, nhưng dần dần sẽ dẫn đến sự suy giảm trí tuệ nặng nề, tàn phá khả năng nhớ, lý luận, học tập và trí tưởng
tượng của người bệnh.
Phần lớn bệnh nhân Alzheimer đều có những dấu hiệu bệnh như sau:
Tính hay quên liên tục và tăng dần.
Bệnh Alzheimer khởi đầu bằng một giai đoạn quên, đặc biệt là quên những
sự việc mới diễn ra hoặc những việc đơn giản. Nhưng về sau triệu chứng
quên cứ tồn tại và tăng dần.
Bệnh
nhân thường quên nội dung các cuộc nói chuyện, quên các đồ vật, đặt sai
vị trí của chúng, thường đặt chúng không đúng theo vị trí và công dụng.
Bệnh nhân thường quên tên bạn bè, rồi cuối cùng quên hẳn cả tên những
người thân trong gia đình và tên các đồ vật thường dùng nhất, như cái
lược, đồng hồ,…
Khó khăn trong suy nghĩ trừu tượng.
Bệnh nhân Alzheimer gặp rắc rối với sổ tiết kiệm của họ, nhất là phải nhận ra và hiểu các con số.
Khó khăn trong tìm kiếm ngôn từ chính xác để diễn đạt.
Thật là một thử thách lớn lao cho các bệnh nhân Alzheimer khi phải tìm
kiếm các từ ngữ chính xác để diễn đạt những suy nghĩ của mình và ngay
cả chỉ để hiểu kịp các cuộc nói chuyện.
Việc đọc và viết cũng gặp khó
khăn.
Mất
định hướng. Bệnh nhân Alzheimer bị mất định hướng về thời gian và không
gian. Họ không nhớ rõ ngày giờ, bị lạc trong chính ngôi nhà của mình.
Sau cùng bệnh nhân hay đi lang thang ra khỏi nhà.
Mất khả năng phân tích và suy xét.
Việc giải quyết các vấn đề xảy ra hàng ngày (như làm thế nào để biết
thức ăn trên bếp lò bị cháy) trở nên rất khó khăn. Bệnh nhân Alzheimer
giờ đây gặp phải trở ngại lớn trong việc thực hiện những công việc đòi
hỏi phải có kế hoạch, những quyết định và suy xét.
Thực hiện các công việc quen thuộc khó khăn.
Những công việc quen thuộc hàng ngày cần phải làm qua các bước tuần tự,
ví dụ như việc nấu ăn, đã trở thành một cuộc chiến đấu khó khăn cho
người bệnh. Cuối cùng thì bệnh nhân Alzheimer quên cả cách thực hiện
những công việc cơ bản nhất, như đánh răng chẳng hạn
Thay đổi nhân cách.
Người bệnh có tính khí thay đổi thất thường. Họ hoài nghi tất cả mọi
người, cố chấp và cách ly với xã hội. Lúc còn sớm, triệu chứng này có
thể là phản ứng của người bệnh với tâm trạng thất vọng khi họ nhận thấy
mình không thể kiểm soát được trí nhớ.
Vì vậy mà trầm cảm hay đi đôi
với bệnh Alzheimer. Mất ngủ cũng thường xảy ra. Khi bệnh tiến triển
nặng, bệnh nhân trở nên khó tính, hay kích động và cư xử không phù hợp.
Điển
hình, những người thân của bệnh nhân Alzheimer ghi nhận một sự thay đổi
dần dần – không phải đột ngột. Đến khi bệnh tiến triển, các triệu chứng
ngày càng nặng lên buộc bệnh nhân hoặc người nhà phải tìm đến sự giúp
đỡ của thầy thuốc.
Nhiều bệnh nhân Alzheimer cũng nhận ra rằng trí nhớ
của mình có vấn đề, có thể sẽ rất nặng nề.
Quá
trình bệnh lý xảy ra nhanh hay chậm tùy thuộc rất nhiều vào từng cá
thể. Từ triệu chứng quên đơn giản đến lúc sa sút trí tuệ nặng nề có thể
kéo dài 5 năm, nhưng cũng có người đến 10 năm hoặc lâu hơn.
Bệnh
Alzheimer thường diễn tiến từ nhẹ đến vừa, đến nặng. Bệnh nhân còn ở
giai đoạn nhẹ thường có thể sống một mình được và có thể xử lý công việc
khá tốt. Ở giai đoạn vừa, người bệnh sẽ gặp khó khăn lớn nếu không có
người giúp đỡ; còn ở giai đoạn cuối thường không thể tự chăm sóc bản
thân họ được.
Các
nhà nghiên cứu đã gọi giai đoạn mất trí nhớ là giai đoạn suy giảm nhận
thức nhẹ, hay giai đoạn tiền Alzheimer. Giai đoạn này là thời khoảng
giao nhau giữa những triệu chứng suy giảm trí nhớ bình thường do tuổi
già và những triệu chứng nhẹ đầu tiên của Alzheimer.
Bệnh
nhân suy giảm nhận thức nhẹ, mất trí nhớ vượt quá ngưỡng bình thường ở
tuổi của họ, nhưng chưa phải là sa sút trí tuệ của Alzheimer. Việc phân
loại loại mất trí nhớ này giúp các thầy thuốc chẩn đoán chính xác hơn để giúp đỡ hữu hiệu cho người bệnh. Nó giúp cảnh báo cho bệnh nhân nguy cơ
cao phát triển bệnh Alzheimer.
Nguyên nhân gây bệnh
Nguyên
nhân gây bệnh Alzheimer hiện vẫn chưa rõ ràng. Các nhà khoa học đã khám
phá ra trong não các bệnh nhân Alzheimer có nhiều tế bào bị chết hoặc
tổn thương nguyên nhân chưa được biết.
Một
bộ não khỏe mạnh bình thường chứa khoảng 140 tỷ tế bào thần kinh gọi là
nơ-ron. Các nơ-ron này tạo ra các tín hiệu điện học và hóa học, dẫn
truyền từ nơ-ron này sang nơ-ron khác giúp bạn suy nghĩ, ghi nhớ và cảm
nhận. Những chất hóa học này được gọi là chất dẫn truyền thần kinh, giúp
cho các dòng tín hiệu liên tục giữa các nơ-ron.
Trên
bệnh nhân Alzheimer, các nơ-ron trong não bộ chết một cách từ từ, gây
giảm nồng độ các chất dẫn truyền thần kinh và rối loạn các tín hiệu
trong não.
Bệnh này được đặt theo tên của nhà thần kinh học người Đức, bác sĩ Alois Alzheimer.
Năm 1906 ông đã phẫu tích não bộ một tử thi nữ sau nhiều năm mắc bệnh
sa sút trí tuệ. Kết quả cho thấy có những đám tế bào não và những điểm
gút bất thường. Ngày nay, những đám tế bào này (gọi là mảng tế bào) và
những điểm gút (gọi là các đám rối) chính là những thương tổn điển hình
của bệnh Alzheimer.
Các
nhà khoa học vẫn còn đang tiếp tục nghiên cứu về những cấu trúc bất
thường này – các mảng và đám rối – nhằm để hiểu thấu đáo hơn vì sao tế
bào não bệnh nhân Alzheimer bị chết một cách chậm chạp. Có một số giả
thuyết giải thích sự liên quan giữa các cấu trúc này và bệnh Alzheimer:
Mảng.
Các mảng được tạo thành từ những protein vô hại bình thường được gọi là
amyloid-beta. Người ta tin rằng mảng lắng đọng giữa các nơ-ron trong
giai đoạn sớm của các tiến triển bệnh lý, trước khi các nơ-ron bị chết và
triệu chứng bệnh phát triển. Mặc dù nguyên nhân căn bản chưa được xác
định rõ nhưng với các bằng chứng này cũng có thể giả thuyết amyloid-beta
là thủ phạm.
Đám rối.
Các cấu trúc hỗ trợ cho tế bào nơ-ron phụ thuộc vào chức năng bình
thường của một loại protein gọi là TAU. Ở bệnh nhân Alzheimer, các sợi
mảnh protein TAU bị biến đổi trở thành dạng xoắn. Nhiều chuyên gia tin
rằng những tổn thương nặng nề này làm cho tế bào nơ-ron bị chết hoại.
Các
chuyên gia cũng đã khảo sát vai trò của gen trong bệnh Alzheimer. Sự
hiện diện của một số dị tật gen nào đó làm tăng nguy cơ phát bệnh
Alzheimer. Một số nhà khoa học tin rằng việc nhiễm các loại virus phát
triển chậm gây viêm não cũng có liên quan.
Yếu tố nguy cơ
Alzheimer
là một bệnh lý phức tạp có thể chịu ảnh của rất nhiều yếu tố khác nhau.
Các chuyên gia phân biệt nhiều nhóm yếu tố nguy cơ có khả năng thúc đẩy
sự phát triển của bệnh, gồm:
Tuổi tác.
Bệnh Alzheimer thường xuất hiện ở người trên 65 tuổi, nhưng đôi khi
(hiếm) cũng thấy ở bệnh nhân dưới 40. tuổi trung bình của bệnh là 80. Tỷ
lệ bệnh khoảng 1-2% ở lứa tuổi 65, nhưng tăng đến 5% ở nhóm 80 tuổi.
Đến 50% người ở độ tuổi 90 ít nhiều cũng có vài triệu chứng cua bệnh
Alzheimer . Phụ nữ bị nhiều hơn nam giới, một phần vì giới nữ có tuổi
thọ cao hơn.
Yếu tố di truyền.
Nguy cơ bạn bị Alzheimer tăng nhẹ nếu như có một người thân (cha mẹ,
anh chị em ruột) bị bệnh này. Cơ quan ở gen và di truyền hiện vẫn còn là
một dấu hỏi lớn, nhưng các nhà khoa học đã phát hiện một số biến đổi gen
làm tăng cao nguy cơ bệnh trong một số gia đình.
Yếu tố môi trường.
Người ta đã nghiên cứu về ảnh hưởng của các yếu tố môi trường nhằm phát
hiện nguyên nhân cũng như ngăn ngừa bệnh tật. Ví dụ, một số bệnh nhân
Alzheimer bị lắng đọng nhôm trong não.
Kiểm soát và chẩn đoán
Hiện
chưa có một xét nghiệm nào để chẩn đoán xác định bệnh Alzheimer. Do vậy
chỉ có thể chẩn đoán bệnh này bằng cách loại trừ tất cả các nguyên nhân
có thể gây mất trí nhớ.
Ví
dụ, cơn đột quỵ nhỏ, tiềm ẩn có thể làm gián đoạn tạm thời dòng máu lên
não, gây ra sa sút trí tuệ. Bệnh Parkinson – thoái hóa thần kinh , hoặc
trầm cảm, cũng có thể gây giảm trí nhớ. Hơn nữa, người già thường phải
sử dụng nhiều thuốc điều trị khác có thể ảnh hưởng đến trí nhớ và khả
năng suy nghĩ.
Để giúp ích cho chẩn đoán Alzheimer từ nhiều nguyên nhân gây mất trí nhớ, người ta dựa vào những yếu tố sau:
Tiền sử bệnh
Bác sĩ cần hỏi kỹ về tình trạng sức khỏe chung và các vấn đề bệnh
lý đã xảy ra trước đây, nhất là những vấn đề xảy ra trong các hoạt động
hàng ngày của bệnh nhân. Cần thu thập thêm thông tin từ người thân và
bạn bè của bệnh nhân.
Các thử nghiệm thường quy. Xét nghiệm máu, nước tiểu giúp có thể loại trừ những nguyên nhân gây sa sút trí tuệ khác.
Các thử nghiệm tâm thần
Các thử nghiệm này dùng để đánh giá trí nhớ, khả năng giải quyết vấn đề, khả năng chú ý, kỹ năng đếm và ngôn ngữ.
Các thử nghiệm này giúp cho bác sĩ lượng định chính xác khả năng nhận thức của
bệnh nhân. Ví dụ, bác sĩ có thể kiểm tra trí nhớ gần và trí nhớ dài hạn
bằng cách hỏi: Hôm nay là ngày gì? Chiến tranh Thế Giới thứ II xảy ra
năm nào? Các thử nghiệm nhắc lại cũng là một ví dụ. Bác sĩ liệt kê tên những
người thân trong gia đình bệnh nhân, bệnh nhân nhắc lại ngay rồi lặp lại
sau 5 phút.
Kiểm soát não bộ
Bằng cách chụp cắt lớp điện toán CT scan, chụp cộng hưởng từ hạt nhân MRI,
chụp phát xạ positron PET, dựa vào đó có thể định vị được những bất
thường có thể thấy được.
Nhờ
vào những phương pháp này, các bác sĩ có thể chẩn đoán chính xác
đến 90% các trường hợp Alzheimer. Chẩn đoán chính xác 100% chỉ có thể
qua phương pháp phẫu tích não bộ tử thi để tìm các mảng và đám rối –
điều không thể thực hiện khi bệnh nhân còn sống.
Những
xét nghiệm về gen và di truyền học vẫn còn trong vòng thử nghiệm. Thử
nghiệm máu chỉ cho biết rằng một người có mang gen bất thường có thể có
liên quan với Alzheimer mà không thể cho biết người nào mang các gen đó
sẽ bị tiến triển thành bệnh.
Biến chứng
Hầu
hết bệnh nhân Alzheimer không tử vong do bệnh chính mà thường do các
bệnh kèm theo, như viêm phổi hoặc các nhiễm trùng khác.
Ở
Alzheimer giai đoạn nặng, bệnh nhân mất tất cả các khả năng tự chăm sóc
cho bản thân. Họ ăn uống khó khăn, không kềm chế hoặc không thể kiểm
soát bước đi và thường đi lang thang khỏi nhà.
Mất các khả năng kiểm soát này làm tăng nguy cơ mắc các bệnh như:
Viêm phổi
Khó nuốt thức ăn và các dịch uống làm bệnh nhân dễ hít các chất này vào phổi, gây ra viêm phổi hít.
Nhiễm trùng
Bệnh nhân thường đi tiểu không tự chủ nên phải đặt thông tiểu, làm tăng
nguy cơ nhiễm trùng đường niệu, nếu không được điều trị sẽ càng nặng
hơn, có thể đe dọa mạng sống bệnh nhân.
Té ngã và các biến chứng
Người bệnh thường bị mất định hướng và dễ dàng bị vấp ngã, làm tăng
nguy cơ gãy xương. Hơn nữa, té ngã thường làm chấn thương đầu nặng, như
xuất huyết nội sọ, bệnh nhân phải chịu phẫu thuật nằm viện dài ngày,
càng làm tăng nguy cơ huyết khối trong não, tim, phổi, loét da do tư
thế,…tất cả đều đe dọa mạng sống người bệnh.
Điều trị
Cho
đến gần đây vẫn chưa có phương pháp nào thực sự điều trị cho bệnh
Alzheimer. Thuốc và chăm sóc bệnh nhân là những biện pháp chủ yếu.
Thuốc
Các
thuốc hiện có không thể làm ngăn chặn hay nghịch đảo quá trình bệnh
nền tảng, nhưng chúng có thể làm chậm quá trình diễn tiến bệnh hay làm
suy giảm các triệu chứng. Các thuốc được khuyến cáo dùng trong bệnh
Alzheimer gồm:
Tacrine (Cognex).
Tacrine có thể cải thiện khả năng trí tuệ khoảng 30% bệnh nhân
Alzheimer mức độ từ nhẹ đến trung bình bằng cách làm chậm sự suy giảm
chất dẫn truyền thần kinh trong não. Tác dụng phụ gồm: buồn nôn, tiêu
chảy, mệt mỏi, thường chỉ nhẹ và ngắn hạn.
Rivastigamine (Exelon).
Cũng giống như tacrine và donepezil, rivastigamine ngăn chặn sự giảm
sút các chất dẫn truyền thần kinh, giảm các triệu chứng. Tác dụng phụ:
buồn nôn, nôn.
Các bác sĩ cũng thường sử dụng các thuốc nhằm cải thiện triệu
chứng đi kèm, như mất ngủ, lơ đãng mất tập trung, lo âu, kích động và
trầm cảm.
Việc
điều trị bệnh Alzheimer hiện nay vẫn còn trong giai đoạn non trẻ. Nhưng
các nhà nghiên cứu vẫn lạc quan tin tưởng rằng trong một tương lai
không xa, nhiều thuốc mới ra đời, hiệu quả hơn, nhanh chóng hơn trong
triệt thoái các triệu chứng của bệnh Alzheimer.
Các chuyên gia hiện đang
khảo sát các triệu chứng giống bệnh Alzheimer trên chuột thí nghiệm
nhằm thúc đẩy việc chế tạo các loại thuốc có thể trì hoãn hoặc làm kéo
dài quá trình tiến triển bệnh.
Chăm sóc bệnh nhân
Trước
khi tìm ra một phương pháp hữu hiệu điều trị bệnh Alzheimer, người bệnh
rất cần sự quan tâm chăm sóc và giúp đỡ từ những người xung quanh.
Theo
Hiệp hội bệnh Alzheimer quốc gia Hoa Kỳ, cứ 10 gia đình thì có 1 người có
liên quan đến bệnh này. Trong 4 triệu người mắc bệnh Alzheimer tại Mỹ,
70% sống tại nhà và được sự chăm sóc của những người thân trong gia
đình.
Chăm
sóc bệnh nhân là một thử thách rất lớn. Sự suy sụp chậm chạp và không
rõ giới hạn đòi hỏi người chăm sóc phải rèn luyện tính nhẫn nại, sự hiểu
biết, tình thương và óc sáng tạo.
Mấu
chốt của việc chăm sóc là tập trung vào những công việc mà người bệnh
Alzheimer vẫn còn thấy thích thú. Thực chất những phương cách làm giảm
tiếp xúc va chạm đến những khả năng bị suy yếu và các rối loạn cư xử
hành vi có thể tránh được một số khó khăn của bệnh.
Mỗi
bệnh nhân Alzheimer đều phải trải qua những triệu chứng và những thời
kỳ hết sức khó khăn. Cho nên các kỹ thuật chăm sóc cũng thay đổi cho
từng trường hợp cụ thể. Bạn cần phải biết cách thích nghi với các tình
thế chăm sóc đặc biệt sau:
Trợ giúp về trí nhớ
nhằm hỗ trợ cho người bệnh khả năng độc lập. Bạn hãy viết ra cho bệnh
nhân danh sách các công việc phải làm trong ngày, các số điện thoại
thường dùng, nhất là số điện thoại của trung tâm giúp đỡ và hướng dẫn
các tác vụ đơn giản, như cách pha cà phê, cách sử dụng điện thoại…
Kiến trúc nhà ở.
Môi trường nhà ở tạo cảm giác bình yên thoải mái và giảm thiểu các sự việc về cư xử. Vị trí lạ, tiếng ồn ào, đông người,… làm người bệnh có cảm
giác bất an, lo âu và nhiều suy nghĩ khó khăn hơn.
Giám sát chặt chẽ
tránh để bệnh nhân đi lang thang. Một số trường hợp cần phải dùng đến
những thẻ bỏ túi đơn giản, như “ Hãy gọi về nhà” có kèm số điện thoại
bên dưới, hoặc đeo vòng tay cho bệnh nhân có ghi rõ tên tuổi, số điện
thoại liên lạc và câu ghi chú “Suy giảm trí nhớ”,…
Sự
đi lạc của bệnh nhân có thể chỉ đơn giản là họ đang tìm kiếm một vật gì
đó, như tìm nhà tắm, hay đang cố thực hiện một công việc có ý nghĩa.
Việc tổ chức cho họ những cuộc đi bộ vì sức khỏe hàng ngày giúp bệnh
nhân giảm bớt tình trạng đi lang thang.
Xếp đặt thời gian buổi tối có trình tự.
Thái độ hành vi của bệnh vào buổi tối thường xấu đi. Thiết lập giờ
nghỉ ngơi ổn định và êm đềm, tránh xa tiếng ồn của tivi, những bữa ăn tối
và các thành viên hiếu động trong gia đình (như trẻ con). Giới hạn
lượng caffein trong ngày, những bài thể dục thân thể hàng ngày cũng giúp
ích cho sự thư giãn trong giấc ngủ về đêm.
Tăng cường giao tiếp.
Khi nói chuyện với người bệnh, bạn nên chú ý đứng gần họ để có thể
thấy, cầm tay, vài thể hiện sự thân mật và chăm sóc. Nói chậm rãi, câu
đơn giản và đừng thúc giục họ trả lời. Nên dùng nhiều cử chỉ và dấu
hiệu, như chỉ vào các đồ vật. Tránh hỏi những câu quá phức tạp dễ làm
cho bệnh nhân nản lòng khi phải tìm câu trả lời một cách khó khăn.
Tạo một môi trường an toàn.
Hãy tạo cho nhà của người bệnh trở thành một nơi thân thiện và an toàn.
Sắp xếp đồ đạc vào những vị trí cố định, tránh lộn xộn và ngã đổ. Khóa
tủ thuốc, rượu, vật nhọn hay vũ khí, các chất có thể gây ngộ độc, các
vật dụng và công cụ nguy hiểm. Dời các dụng cụ điện tránh xa nhà tắm để
ngừa sự cố, đặt cố định nhiệt độ máy nước nóng không quá 120o F,…
Các bài tập kết hợp
có thể đem lại ích lợi cho nhiều bệnh nhân Alzheimer. Thực sự thì tập
thể dục luôn có ích cho mọi đối tượng, kể người bệnh lẫn người bình
thường, giúp tăng cường sự khỏe mạnh, sức chịu đựng, có lợi cho hệ tim
mạch, cải thiện giấc ngủ và giúp tinh thần sảng khoái. Thể dục giúp bệnh
nhân Alzheimer duy trì khả năng vận động, duy trì sức khỏe, tính dẻo
dai và sự thăng bằng – giảm nguy cơ chấn thương nặng do té ngã.
Để giúp đỡ cho bệnh nhân Alzheimer trước các thử thách của cuộc sống
hàng ngày, những người thân trong gia đình cần phải có những dự tính
định trước trong chăm sóc và xử thế với người bệnh, càng sớm càng tốt.
Cần phải trả lời những câu hỏi có tính nhân bản, pháp lý và kinh tế, ví
dụ như:
Bệnh nhân Alzheimer có thể lái xe an toàn, làm việc hay sống một mình trong bao lâu?
Khả năng chăm sóc bệnh nhân trong các giai đoạn của gia đình và người thân đến mức nào
Khả năng kinh tế của gia đình có thể đảm đương việc chăm sóc toàn diện cho bệnh nhân tại nhà hiện nay và trong tương lai không?
Những
vấn đề này hết sức cần thiết cho bệnh nhân, bác sĩ điều trị và gia đình
. nói chung bệnh nhân Alzheimer cần phải được giúp đỡ càng lâu càng tốt.
Phòng ngừa
Hiện
nay hầu như không có cách nào ngăn ngừa khởi phát bệnh Alzheimer. Nhưng
các nhà nghiên cứu vẫn tiếp tục tìm kiếm những phương pháp làm giảm các
yếu tố nguy cơ của bệnh. Có nhiều hướng rất triển vọng, nhưng cũng chỉ
là bước đầu:
Kháng viêm non-steroid (NSAIDs). Một nghiên cứu công bố năm 1996 cho thấy các thuốc NSAIDs ibuprofen (Advil, Motrin, Nuprin), naproxen sodium (Aleve) và indomethacin (Indocin)
có thể giảm nguy cơ bệnh Alzheimer 30-60%. Các bác sĩ tin rằng hiện
tượng viêm não là một phần trong quá trình tiến triển bệnh Alzheimer.
Các nhà khảo sát không biết rõ tại sao aspirin, cũng là một NSAID, và acetaminophen (Tylenol),
đã không có hiệu quả gì. Gần đây các chuyên khảo sát trên những cặp
song sinh, thấy rằng những người sử dụng NSAID thường xuyên, nhất là để
điều trị viêm khớp, có tần suất mắc Alzheimer thấp hơn 10 lần so với
người còn lại trong cặp song sinh ít sử dụng NSAID. Tuy nhiên các bác sĩ
không khuyến cáo sử dụng NSAIDs, vì chúng có thể gây viêm loét và xuất
huyết đường ruột. Hiện thuốc này còn đang được tiếp tục chứng minh.
Vitamin E, selegiline hydrochloride và các chất chống oxy hóa khác (như Ginkgo biloba, selenium,..). Các chuyên gia đang nghiên cứu có phải chăng vitamin E và selegiline (Eldepryl), một thuốc điều trị bệnh Parkinson, có thể ngăn chặn sự tiến triển của bệnh Alzheimer hay không.
Các
thuốc này làm chậm tốc độ tiến triển của Alzheimer vừa và nặng. Cả hai
đều là các chất chống oxy hóa giúp ngăn ngừa tổn thương tế bào não nhờ
khả năng tiêu diệt gốc tự do.
Các
gốc tự do là những sản phẩm phụ được tạo ra trong quá trình chuyển hóa
bình thường của tế bào. Một số chuyên gia tin rằng các gốc tự do bị dọn
dẹp bởi tế bào miễn dịch trong não sinh ra do quá trình viêm mạn tính.
Các gốc tự do có thể đi kèm với các phân tử trong tế bào não và gây rối
loạn chức năng tế bào.
Estrogen.
Bệnh Alzheimer trên các bệnh nhân nữ mãn kinh có thể liên quan đến sự
thiếu hụt estrogen. Estrogen giúp duy trì bộ não khỏe mạnh bằng tăng
cường sản xuất các chất trung gian thần kinh quan trọng, ngăn ngừa sự
lắng đọng và tích tụ của các mảng và cải thiện tưới máu cho não.
Các
nghiên cứu còn cho thấy điều trị hormone thay thế cho các phụ nữ mãn
kinh làm giảm nguy cơ Alzheimer ở đối tượng này 30-40%. Tuy nhiên việc
dùng hormone thay thế đơn độc để phòng ngừa Alzheimer chưa được chấp
nhận.